Ngày nay phụ nữ lớn tuổi là chỉ định ngày càng phổ biến trong thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm do họ có xu hướng kết hôn và sinh con ngày càng muộn.Theo một thống kê trên trang Human Reproductive 2011 từ năm 1970 đến 2010, tuổi mẹ trung bình khi sinh con đầu lòng đã tăng lên đáng kể, đặc biệt ở Châu Âu đến gần 4 tuổi (từ 25.5 lên 29.5) 1
Tuy nhiên một sự thật rằng, phụ nữ càng lớn tuổi thì khả năng sinh sản sẽ càng bị ảnh hưởng đặc biệt là ở độ tuổi sau 35, tỉ lệ có thai càng giảm, tỉ lệ sảy thai càng tăng3 (* NGP: Non-growing follicle).
Tại sao lại như vậy?
Khi người phụ nữ ngày càng lớn tuổi, buồng trứng sẽ “lão hóa” dần đi, kéo theo sự suy giảm tự nhiên về số lượng và chất lượng trứng. Dự trữ buồng trứng giảm dần theo độ tuổi, hậu quả là buồng trứng đáp ứng kém với kích thích buồng trứng hay số lượng trứng thu được trong mỗi chu kỳ kích thích buồng trứng ở phụ nữ lớn tuổi không cao, dẫn đến tăng nguy cơ hủy chu kỳ và giảm khả năng thành công của một chu kỳ kích thích buồng trứng thụ tinh trong ống nghiệm. Về mặt chất lượng trứng, sự bất thường về nhiễm sắc thể của trứng ngày càng gia tăng theo độ tuổi, dẫn đến giảm khả năng thụ tinh của trứng với tinh trùng; giảm chất lượng phôi, gia tăng tỷ lệ các phôi lệch bội (mang bất thường về nhiễm sắc thể). Ngoài ra, khả năng làm tổ của phôi cũng giảm dần trong khi tỷ lệ sẩy thai tăng dần theo độ tuổi, chủ yếu do các bất thường về phôi tạo thành.
Số lượng năng noãn chưa phát triển sẽ giảm dần theo độ tuổi3
Số phôi bình thường cũng giảm theo tuổi4
Sự đáp ứng với kích thích buồng trứng cũng kém đi5
Tỉ lệ thai sinh sống cũng giảm đi6
Vì vậy các đối tượng bệnh nhân lớn tuổi sẽ có những đặc điểm hoàn toàn khác biệt so với nhóm đối tượng bệnh nhân bình thường khi điều trị hiếm muộn. Đây là nhóm bệnh nhân có tiên lượng thành công khi làm ivf không cao, đòi hỏi các chuyên gia hỗ trợ sinh sản có những chiến lược và phác đồ điều trị phù hợp để mang lại cơ hội có thai cao nhất.
Các cách tiếp cận mà các chuyên gia hỗ trợ sinh sản có thể tiếp cận đối với nhóm đối tượng phụ nữ lớn tuổi như sau:
-
Các bác sĩ có thể tăng liều lượng kích thích buồng trứng với các bệnh nhân này để đảm bảo tạo được đầy đủ nang noãn kể cả về số lượng lẫn chất lượng.
-
Bác sĩ có thể tăng số lượng chu kỳ điều trị của bệnh nhân để thu gom trứng, hoặc để gia tăng tỉ lệ thành công cộng dồn.
-
Với các trường hợp phụ nữa lớn tuổi thì khả năng cao là bệnh nhân sẽ bị giảm nồng độ LH7, một hóc môn quan trọng bên cạnh FSH nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của nang noãn, do đó bác sĩ có thể sử dụng các sản phẩm thuốc tiêm kích trứng có chứa LH để bổ sung thêm trong phác đồ điều trị nhằm kích thích buồng trứng đạt được kết quả tối ưu.
-
Có thể tư vấn sàng lọc di truyền tiền làm tổ để lựa chọn các phôi có bộ nhiễm sắc thể bình thường để chuyển phôi nhằm gia tăng tỷ lệ làm tổ.
Tóm lại, các phụ nữ lớn tuổi có nguyện vọng thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm nên tham khảo ý kiến chuyên gia hỗ trợ sinh sản để lựa chọn các chiến lược điều trị và phác đồ điều trị phù hợp với từng cá thể riêng biệt nhằm tối ưu hóa cơ hội thành công của chu kỳ IVF.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-
Mills et al. Hum Reprod Update 2011
-
WHO Infertility prevalence estimates 1990–2021 (https://ec.europa.eu/eurostat/web/products-eurostat-news/-/ddn-20210224-1)
-
Figure reproduced from Heffner LJ. N Engl J Med 2004
-
Wallace & Kelsey, Plos One 2010
-
Alviggi et al. Reprod Biol Endocrinol. 2009
-
Based on SART data
-
Von Wolff M, et al., RBMO 2017